„äkǤÔ?;Ò}¶4'ÏŽü«�:ä×ÞtøÞiþ{ÍC›™êbÓ|ÞòL7øíÓ̳Ƥ¦QÀYåàÿ&�^#Ûmï·$¹k½©Á–} îZŸêïÅ]£Ö›.ؼ­�wö¤}¿Y½¯ˆ�´õp/æ=¹b:™Móþ=ÍBv6ÞŒùSÒrÝÙÚ $ÅOË#]Ý‚¸¡úYNZO¶j äW"ÎÒ&Eâ®�®T�ƒ�·ÕÿÜ,�bu�bªÞÈ‘-™YeRUÒr¤FxÄ‘:Ó(Xd ­Û:Ëa’·¸ŸCA‹ŠYÊN~?Ŭª-Ãä¾ x™ OºG8œg‡òR÷¹Ò}ÃÚVèµþ ­ÜÐ6´òWµ?ÛÊ1ñ¦U�Ï?% ~÷ 7Vê‚ÈùR6È7BåÌýX8ŠÌ¼`~­3 a�b u¾­e:öÒÞT¡U2ÏÛ�[`ujA±ûçÛ«²ÒMí®UÏ«›,yœñƒrâÕÔ>°LÐ~æºA¥1P�3-UY‰‰ÉZ¯j¯¹ý5;ºZ€ãêÈÁV’Ô±åY;p7$•dô5¿ª¢J2iž¡’Z2ùZÅ‘�ºí‹µ.íÆYµr €Si²ªÆ0Õý”ª±¦úñÃÒVÿn�‘È­îÖ°¡J|ק9l€<ö¾·­}jMâÞ6‰ó-|ØÈ–²M£kË‘Q‰…WM B¦ë.áù·•í\ËAÏÉ2P%¡1©n88¨$g†Ã™HXäA‰zƒ`€£7Ãmñ w†6j§ósd( ¡ÿ�bêòÿii½Ùû¼åìI»R>Ãõ;ÂÍovðó7&à’${! Äge»–éGˆƒQ—dw">

Báo Cáo Kinh Tế Xã Hội Việt Nam Năm 2022 Pdf

Báo Cáo Kinh Tế Xã Hội Việt Nam Năm 2022 Pdf

%PDF-1.5 %µµµµ 1 0 obj <>>> endobj 2 0 obj <> endobj 3 0 obj <>/ExtGState<>/XObject<>/ProcSet[/PDF/Text/ImageB/ImageC/ImageI] >>/Annots[ 36 0 R] /MediaBox[ 0 0 612 792] /Contents 4 0 R/Group<>/Tabs/S/StructParents 0>> endobj 4 0 obj <> stream xœ½=]oÇ‘ïôöÅÀl §¿»A8‘²ßÅF+¾;4­�<‰¤,S¾Ë¿•œ7ãò–—;à€«ªžÙ�ÝéšáÎÖ2@¬åìG}tw}Wõñó÷wW=;¿[<}züüîîìüòõ‹o�_ݾûËñ«¿½{}ü‡³‹«›³»«Û›ã¯?|‡�~÷úì‡×ïŸ=[œ¼8]üøøQS7ø¿¤ô¢YxøoHzñþõãGÿþ›ÅÍãG'¯?:~©JÕ�]¼úëãG >×,àI„¯ê…O®VðÎ5|î·_‡ÅÅOð›‹ú+¶ýöñ£o«Åò/‹WÿúøÑçð‹|üh4|hñù—§‹c†Ì“Û»»ÛkžÒ—··w’”:xCgJ‰À=èÀÆÄZGdF™¼Ó^:j�5ÉÙ½6ÞkU ëb¨�&Š‚ÂWJ×ø¡&Ö~qŽ{é‹ë³‹×iñâvÑ¡¸8þ"÷åé/͎˪©¸yU¬]ËÅÚèH;gà¿Ñ¨Åû‹ÒÓ?•ø<ÀO팼QÚsÉà?A�?Q›€¨8ŸZ·Ÿfÿmydª«›ËÅÒUw»nŠŒ“ÙÆI+W'3§§�§Ïf¡2`�Ö€ƒšÏž�Ï ‹‡¯mš‹ÇŒ_¼:ÿ¶úæJj‘@0¨½)Z©E²€Ì_¤;ÜË¥©¾:[¥êzâÌé}ÏœŽªŽr›j€ 9þýÙÍÅ¢z}sô篗;bk©N~SF¤X7ná|¬Í¶&xÚ4!Î[G5„¤]{U†4ÿ, Á(ÏT½š{@†`4(›ÀñÍ87wÿ �–NA7Ë£ Ü;R©úIŽ8›X�p¸}#Gœs#Ä]¦©Þ]ʉZŽ0?�°¤hF 5®yv”ž¢qó–„gÿqð·Âþ¯žxmŸ·Ä?ð¡j Y›Ä�5ÄÑÈf>„äkǤÔ?;Ò}¶4'ÏŽü«�:ä×ÞtøÞiþ{ÍC›™êbÓ|ÞòL7øíÓ̳Ƥ¦QÀYåàÿ&�^#Ûmï·$¹k½©Á–} îZŸêïÅ]£Ö›.ؼ­�wö¤}¿Y½¯ˆ�´õp/æ=¹b:™Móþ=ÍBv6ÞŒùSÒrÝÙÚ $ÅOË#]Ý‚¸¡úYNZO¶j äW"ÎÒ&Eâ®�®T�ƒ�·ÕÿÜ,�bu�bªÞÈ‘-™YeRUÒr¤FxÄ‘:Ó(Xd ­Û:Ëa’·¸ŸCA‹ŠYÊN~?Ŭª-Ãä¾ x™ OºG8œg‡òR÷¹Ò}ÃÚVèµþ ­ÜÐ6´òWµ?ÛÊ1ñ¦U�Ï?% ~÷ 7Vê‚ÈùR6È7BåÌýX8ŠÌ¼`~­3 a�b u¾­e:öÒÞT¡U2ÏÛ�[`ujA±ûçÛ«²ÒMí®UÏ«›,yœñƒrâÕÔ>°LÐ~æºA¥1P�3-UY‰‰ÉZ¯j¯¹ý5;ºZ€ãêÈÁV’Ô±åY;p7$•dô5¿ª¢J2iž¡’Z2ùZÅ‘�ºí‹µ.íÆYµr €Si²ªÆ0Õý”ª±¦úñÃÒVÿn�‘È­îÖ°¡J|ק9l€<ö¾·­}jMâÞ6‰ó-|ØÈ–²M£kË‘Q‰…WM B¦ë.áù·•í\ËAÏÉ2P%¡1©n88¨$g†Ã™HXäA‰zƒ`€£7Ãmñ w†6j§ósd( ¡ÿ�bêòÿii½Ùû¼åìI»R>Ãõ;ÂÍovðó7&à’${! Äge»–éGˆƒQ—dw

[vi] The Conference Board (August 2022),  The Conference Board Economic Forecast for the US Economy

https://www.conference-board.org/research/us-forecast

[vii] Ngân hàng Thế giới (2022), Báo cáo điểm lại tháng 8/2022: Giáo dục để tăng trưởng.

[viii] Ngọc An (2022), Việt Nam vươn lên top 10-15 nền kinh tế có quy mô ngoại thương lớn nhất toàn cầu trong năm nay, https://tuoitre.vn/viet-nam-vuon-len-top-10-15-nen-kinh-te-co-quy-mo-ngoai-thuong-lon-nhat-toan-cau-trong-nam-nay-20220819184301718.htm

%PDF-1.4 %âãÏÓ 5 0 obj <>stream xœíÁ1  þ©g O  €—•- endstream endobj 4 0 obj <>stream ÿØÿà JFIF ÿÛ C %# , #&')*)-0-(0%()(ÿÛ C (((((((((((((((((((((((((((((((((((((((((((((((((((ÿÀ ”¦ ÿÄ ÿÄ µ } !1AQa"q2�‘¡#B±ÁRÑð$3br‚ %&'()*456789:CDEFGHIJSTUVWXYZcdefghijstuvwxyzƒ„…†‡ˆ‰Š’“”•–—˜™š¢£¤¥¦§¨©ª²³´µ¶·¸¹ºÂÃÄÅÆÇÈÉÊÒÓÔÕÖ×ØÙÚáâãäåæçèéêñòóôõö÷øùúÿÄ ÿÄ µ w !1AQaq"2�B‘¡±Á #3RðbrÑ $4á%ñ&'()*56789:CDEFGHIJSTUVWXYZcdefghijstuvwxyz‚ƒ„…†‡ˆ‰Š’“”•–—˜™š¢£¤¥¦§¨©ª²³´µ¶·¸¹ºÂÃÄÅÆÇÈÉÊÒÓÔÕÖ×ØÙÚâãäåæçèéêòóôõö÷øùúÿÚ ? ú¦€ (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  wXÑžF Š2ÌÇ SBWÑLJë´Ÿe«][iú3ßÚÄûc¹^X”áJ澆—ÎpRœìßKÁ<©æ‘ŒšŒn½J_ðÑ°ÿ г'þþ7Wþ®¿ùùøÁ'ûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðþ6údÿ Àáÿ Æèÿ W_üüü?à‡ö²þOÇþ ÃFÃÿ BÌŸø?øÝêëÿ ŸŸ‡üþÖ_Éøÿ ÀøhØèY“ÿ ‡ÿ £ý]óóðÿ ‚ÚËù?øÿ ý2àpÿ ãt«¯þ~~ðCûY'ãÿ ?á£aÿ ¡fOüün�õuÿ ÏÏÃþk/äüàü4l?ô,Éÿ �Ãÿ �Ñþ®¿ùùøÁíeüŸ�ü ÿ †�‡þ…™?ð8ñº?Õ×ÿ ??ø!ý¬¿“ñÿ €ðÑ°ÿ г'þþ7Gúºÿ ççáÿ ?µ—ò~?ðŸáÿ Å«¿k«a§øaã…û‹–¼Êž¿s“è¹çŸC\˜Ì¦8J|ó©¯Emÿ |>9×—,aøÿ À=^¼cÐ (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  €<ö†øŒ-á—º, Í"í¿™H!T�õCÜ÷ôw8ú<—.ækQiÓüÿ Èòs]—²‡Ïü�œëê(  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € (  € ·¤é×Z¶§maaKus Ž4É?ËÞ¢¥HÒƒœÞˆ¨AÎJ1ÝŸh|7ð}§ƒ<5„†íÔ=Üì²ãžzí€=?ø

Năm 2022, tăng trưởng kinh tế nước ta đạt kết quả rất nổi bật, an sinh xã hội được đảm bảo

Kinh tế - xã hội nước ta năm 2022 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những thách thức lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao; lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ buộc các quốc gia phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, mưa bão, hạn hán... đã làm gia tăng rủi ro đến thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu. Mặc dù, dự báo gần đây nhất về tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 được các tổ chức quốc tế điều chỉnh tăng so với các dự báo đưa ra trong quý III/2022 nhưng đều ở mức thấp hơn so với năm 2021. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giữ nguyên mức dự báo đưa ra trong tháng 7/2022, tăng trưởng toàn cầu năm 2022 đạt 3,2%. Fitch Ratings điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 so với dự báo trong tháng 9/2022, đạt 2,6%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 đạt 3,1%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022… Trong nước, nhờ vào sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, kinh tế nước ta ước đạt mức tăng trưởng 8,02%, đây là mức tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Và đây cũng là mức tăng trưởng cao nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2022 trở lại đây. Có 14/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt mục tiêu Quốc hội đề ra trong năm 2022. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp. Cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng và xuất khẩu tăng cao. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì mức tăng trưởng ổn định khẳng định chương trình tái cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm đã phát huy hiệu quả, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu phục vụ ổn định đời sống của nhân dân và gia tăng xuất khẩu. Hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công được cải thiện rõ rệt, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt mức cao, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, đóng góp 38,24%; khu vực dịch vụ tăng 9,99%, đóng góp 56,65%.

Hình 1. Tốc độ tăng GDP các quý năm 2022 (%)

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, trong đó sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, xuất khẩu nông sản đạt kết quả ấn tượng do nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Ngành nông nghiệp tăng 2,88%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 6,13%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,43%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, các doanh nghiệp đã chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,10%, đóng góp 2,09 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,45%, đóng góp 0,04% điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,05%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng 5,19%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 8,17%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ được khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng năm 2022 đạt 9,99%, cao nhất trong giai đoạn 2011-20221. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Ngành bán buôn, bán lẻ tăng 10,15% so với năm trước, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 11,93%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ2 với mức tăng 40,61%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,03%, đóng góp 0,53 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 7,80%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm. Riêng ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 7,6%, làm giảm 0,13 điểm phần trăm do dịch Covid-19 đã được kiểm soát3 nên chi cho phòng, chống dịch bệnh giảm so với năm 2021.

GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 188,1 triệu đồng/lao động (tương đương 8.083 USD/lao động, tăng 622 USD so với năm 2021). Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,8%4 do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2022 đạt 26,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021).

Nhìn chung, năm 2022, kinh tế vĩ mô nước ta ổn định, kiểm soát được lạm phát. Năm 2022, áp lực lạm phát toàn cầu ở mức cao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh lãi suất để phù hợp với bối cảnh quốc tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định, đảm bảo quyền lợi của khách hàng; thị trường chứng khoán trong nước sụt giảm trong bối cảnh thị trường chứng khoán toàn cầu chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế.

Tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường năm 2022 đạt 208,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 30,3% so với năm 2021; 143,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 19,5%, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp lựa chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (chiếm 51,5%).

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2022 cho thấy: Có 66,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn và ổn định so với quý III/2022, 33,7% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.

Tính đến thời điểm 21/12/2022, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,85% so với cuối năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 8,31%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 5,99% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 7,73%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,87% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 12,53%).

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 3.219,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước, mức tăng này phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước, đạt mức cao nhất từ năm 2018 đến nay. Thu ngân sách Nhà nước năm 2022 ước tăng 13,8% so với năm trước. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 8,1% so với năm 2021, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn, hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 và khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Hoạt động xuất nhập khẩu đạt kết quả khá. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; nhập khẩu tăng 8,4%5. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD. Giá xăng dầu trong nước giảm theo giá nhiên liệu thế giới là nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2022 giảm 0,01% so với tháng trước, tăng 4,55% so với tháng 12/2021. CPI bình quân quý IV/2022 tăng 4,41% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2022, CPI tăng 3,15% so với năm 2021, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Bên cạnh tăng trưởng kinh tế đạt kết quả nổi bật, đời sống dân cư nước ta cũng được cải thiện và bảo đảm an sinh xã hội. Dân số trung bình của Việt Nam năm 2022 là 99,46 triệu người. Chất lượng dân số được cải thiện, mức sinh giảm thấp nhất trong giai đoạn 2018-20226 và duy trì mức sinh thay thế từ năm 2005 trở lại đây. Tình hình lao động, việc làm năm 2022 phục hồi tích cực nhưng có xu hướng tăng chậm lại trong quý IV/2022. Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2022, tình hình đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 4,6 triệu đồng/người/tháng, tăng 9,5% so với năm 2021. Tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng lên so với tháng trước là 90,5%. Tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng lên so với cùng kỳ năm 2021 là 85,5%; tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm là 14,5% do ảnh hưởng bởi dịch bệnh và thiên tai. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều ước khoảng 3,6%, giảm 0,8 điểm phần trăm so với năm 2021. Trong năm 2022, có 23,5% hộ gia đình nhận được sự trợ giúp từ các nguồn hỗ trợ khác nhau. Cụ thể, tỷ lệ hộ nhận được trợ giúp từ các chương trình, chính sách chung của quốc gia là 9,5%; từ họ hàng, người thân là 11,8%; từ các chương trình, chính sách của địa phương là 8,7%; từ các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân khác là 4,9% và từ các nguồn khác là 0,1%. Công tác an sinh xã hội định kỳ và công tác giảm nghèo bền vững tiếp tục được quan tâm, chỉ đạo, các địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, chăm lo cho hộ nghèo. Trong năm 2022, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 14,4 nghìn tỷ đồng. Trong đó, hỗ trợ cho các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4,7 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là 2,4 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là hơn 2,7 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi bật khác phát sinh tại địa phương là gần 4,6 nghìn tỷ đồng. Có gần 29,8 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/ sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng.

Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động bất thường với nhiều khó khăn, thách thức nhưng hoạt động kinh tế - xã hội năm 2022 của nước ta đạt được những kết quả trên là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bước sang năm 2023, kinh tế - xã hội nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt. Trong khi đó, kinh tế thế giới đang gia tăng khả năng suy thoái, bất ổn; biến động nhanh và khó lường về kinh tế, chính trị, quân sự; dịch bệnh thiên tai khó dự báo trước. Các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2023 thấp hơn so với năm 2022. Cụ thể, dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2023 của IMF là 2,7%, của EU là 2,5%, của OECD là 2,2% và của Fitch Ratings là 1,4%. Còn đối với Việt Nam, theo IMF, tăng trưởng của Việt Nam năm 2023 dự báo là 6,2%; của ADB là 6,3%; WB là 6,7%. WB cho rằng, cả hai động lực tăng trưởng là xuất khẩu và nhu cầu trong nước đều đang chững lại. Xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng do nhu cầu bên ngoài yếu đi. Tiêu dùng hậu Covid dường như cũng phục hồi chậm lại. Bên cạnh đó, điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt hơn và lạm phát gia tăng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước trong thời gian tới. Do vậy, mục tiêu Quốc hội đặt ra cho tăng trưởng của Việt Nam đạt 6,5% thực sự là một thách thức. Để kịp thời có giải pháp khắc phục, đồng thời chủ động tận dụng cơ hội nhằm đạt kết quả cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, tạo đà phát triển mạnh cho những năm tiếp theo; cùng với việc giữ ổn định môi trường phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an toàn, thuận lợi cho đời sống của người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo nền tảng quan trọng cho phát triển, cần tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây:

Một là, theo dõi sát diễn biến tình hình thế giới, diễn biến chính sách tài khóa, tiền tệ của các nước, các khu vực có quy mô nền kinh tế lớn là đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của Việt Nam; chủ động có phương án ứng phó kịp thời với các tình huống phát sinh; thường xuyên cập nhật tình hình để có phản ứng kịp thời nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế trong năm tới.

Hai là, chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá, mặt bằng lãi suất; kiểm soát giá cả, thị trường, bảo đảm cung ứng hàng hóa và các cân đối lớn của nền kinh tế. Có giải pháp hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, chuyển tài sản bằng tiền đồng sang ngoại tệ. Cân đối cung cầu, bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt vào các dịp lễ, Tết.

Ba là, Bộ ngành, địa phương có các giải pháp quyết liệt thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, triển khai nhanh, hiệu quả các nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế trong năm 2023. Đẩy nhanh việc hoàn thiện và triển khai các quy hoạch, tăng cường liên kết vùng để tạo sự đồng bộ, không gian mới và động lực mới cho sự phát triển của các vùng kinh tế - xã hội cũng như các địa phương trong vùng.

Theo Báo cáo của Ngân hàng Chính sách Xã hội, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP về phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tính đến ngày 26/12/2022, tổng số vốn giải ngân các chương trình tín dụng chính sách xã hội đạt 103.491 tỷ đồng, tăng 23.280 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2021; gần 2.368 nghìn lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn trong năm. Tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 283.244 tỷ đồng, tăng 14,2% so với năm 2021 với hơn

6.544 nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ. Trong đó, dư nợ các chính sách cho vay ưu đãi theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ đạt 15.863 tỷ đồng, hoàn thành 83,5% kế hoạch năm 2022.

Bốn là, đẩy mạnh sản xuất trong nước, nhất là các mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, quy hoạch các vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất để chủ động nguồn cung. Triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản; đa dạng hóa thị trường và hàng hóa xuất khẩu. Điều chỉnh kịp thời chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài có chất lượng cao. Triển khai mạnh mẽ các chương trình, giải pháp thúc đẩy tiêu dùng trong nước.

Năm là, tiếp tục tăng cường công tác phòng chống bệnh dịch; chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân.

Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm; công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống.

Sáu là, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; thực hiện nghiêm quy chế làm việc, kỷ luật phát ngôn; công khai, minh bạch, tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng. Tăng cường thông tin, ngăn chặn, triệt phá các thông tin xấu, sai sự thật gây hoang mang cho người dân, tuyên truyền các hình ảnh đẹp về đất nước và con người Việt Nam./.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

________________________ 1. Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ các năm 2011-2022 so với năm trước lần lượt là: 7,65%; 7,03%; 6,82%; 7,31%; 7,05%; 7,46%; 7,12%; 7,46%; 8,08%; 2,01%; 1,57%; 9,99%.

2. Giá trị tăng thêm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống năm 2021 so với năm trước giảm 20,21%. 3  Giá trị tăng thêm ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội năm 2021 so với năm trước tăng 41,01%.

3. Năng suất lao động năm 2021 đạt 172,8 triệu đồng/lao động, tăng 4,6% so với năm trước.

4. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 669 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 336,2 tỷ USD, tăng 18,9%; nhập khẩu đạt 332,8 tỷ USD, tăng 26,7%. 5. Tổng tỷ suất sinh các năm giai đoạn 2018 - 2022 lần lượt là: 2,05 con/phụ nữ; 2,09 con/phụ nữ; 2,12 con/phụ nữ; 2,11 con/phụ nữ; 2,01 con/phụ nữ.

Theo báo cáo của Cục Phân tích Kinh tế Mỹ, trong quý III/2022, tốc độ tăng GDP của Mỹ đạt mức 2,6%, cho thấy dấu hiệu khởi sắc của nền kinh tế có quy mô lớn nhất thế giới này sau hai quý tăng trưởng âm liên tiếp 6 tháng đầu năm 2022. Yếu tố đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế trong quý III/2022 là thương mại ròng tăng 2,77 điểm phần trăm so với tốc độ tăng 1,16 điểm phần trăm trong quý II/2022. Nhập khẩu giảm 6,9%, đầu tư phi dân cư tăng 3,7%. Tuy nhiên chi tiêu của người tiêu dùng trong quý III tăng với tốc độ 1,4%, chậm hơn so với tốc độ tăng 2% của quý II nhưng vẫn ổn định do chi tiêu cao hơn cho các dịch vụ mà dẫn đầu là các dịch vụ chăm sóc sức khỏe[1].

Trong tháng 10, tỉ lệ thất nghiệp tăng 0,2% lên mức 3,7%, và số lượng người thất nghiệp tăng lên mức 6,1 triệu[2]. Tỉ lệ thất nghiệp đã duy trì trong khoảng 3,5-3,7% kể từ tháng 3 năm nay. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động cũng ít thay đổi kể từ đầu năm. Nền kinh tế có thêm 261.000 việc làm trong tháng 10, dẫn đầu là lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ với 53.000 việc làm mới trong tháng. Tính đến tháng 10/2021, mức tăng trưởng việc làm trung bình hàng tháng năm 2022 đạt 407.000 việc làm, thấp hơn nhiều so với mức 562.000 trong năm 2021. Một số lĩnh vực khác có thêm nhiều việc làm mới bao gồm dịch vụ kinh doanh và chuyên nghiệp (+43.000), sản xuất (+32.000), hỗ trợ xã hội (+19.000). Tiền công lao động bình quân theo giờ tăng 12 cent lên mức $32,58. Trong 12 tháng qua, tiền công lao động đã tăng 4,7%. Có thể thấy, thị trường lao động trong tháng 10 tiếp tục có dấu hiệu hạ nhiệt.

So với cùng kỳ năm 2021, chỉ số giá tiêu dùng tăng 7,7% vào tháng 10, giảm tương đối so với con số 8,2% trong tháng 9. Đây là mức tăng thấp nhất kể từ tháng 1 năm 20226. Chỉ số về nhà ở đóng góp hơn một nửa mức tăng tháng; chỉ số về xăng và thực phẩm cũng tăng. Chỉ số năng lượng tăng 1,8 phần trăm trong tháng khi chỉ số xăng và chỉ số điện tăng, nhưng chỉ số khí đốt tự nhiên giảm. Chỉ số thực phẩm tăng 0,6 phần trăm. Chỉ số cho tất cả các mặt hàng trừ lương thực và năng lượng tăng 0,3% trong tháng 10, sau khi tăng 0,6% trong tháng Chín. Các chỉ số về nhà ở, bảo hiểm xe cơ giới, giải trí, phương tiện mới và chăm sóc cá nhân nằm trong nhóm tăng. Các chỉ số giảm trong tháng 10 bao gồm chỉ số ô tô và xe tải đã qua sử dụng, chăm sóc y tế, hàng may mặc và giá vé máy bay. Chỉ số giá của các mặt hàng trừ thức ăn và năng lượng tăng 6,3%. Chỉ số giá năng lượng tăng 17,6% so với cùng kỳ năng ngoái. Chỉ số lương thực tháng 9 tăng 10,9% so với năm 2021.Như vậy, hầu như tất cả các chỉ số giá của tháng 10 đều giảm so với tháng 9.

Trong tháng 8 và tháng 9/2022, mặc dù chỉ số giá tiêu dùng giảm nhẹ so với các tháng trước đó song trên thực tế thì tỷ lệ lạm phát lõi vẫn tăng liên tục với mức tăng từ 5,9% trong tháng 7 lên 6,3% trong tháng 8 và 6,6% trong tháng 9. Tuy nhiên, trong tháng 10/2022, tỷ lệ lạm phát lõi cở Mỹ đã giảm xuống còn 6,3% so với mức 6.6% của tháng trước[3].

Áp lực về giá đang bắt đầu giảm bớt, mặc dù quá trình giảm lạm phát sẽ diễn ra rất chậm với một số trắc trở trong quá trình diễn ra. Sự thay đổi trong chi tiêu của người tiêu dùng đối với dịch vụ, tăng hàng tồn kho bán lẻ (bao gồm cả phương tiện) và giảm chi phí vận chuyển đã giúp giảm lạm phát hàng hóa, một xu hướng mà sẽ tiếp tục trong những tháng tới. Tuy nhiên, lạm phát dịch vụ có khả năng che lấp phần lớn sự cải thiện này.

Bộ Thương mại Mỹ ngày 3/11 công bố số liệu cho thấy sau 5 tháng liên tiếp giảm, thâm hụt thương mại của nước này đã tăng mạnh trong tháng 9 do hoạt động xuất khẩu lương thực và năng lượng giảm trong khi việc nhập khẩu các chất bán dẫn và hàng tiêu dùng tăng. Thâm hụt thương mại của Mỹ đã tăng từ mức 65,7 tỷ USD trong tháng 8/2022 lên 73,3 tỷ USD trong tháng 9. Mức tăng này cao hơn so với dự báo của giới phân tích trong bối cảnh kim ngạch xuất khẩu giảm xuống còn 258 tỷ USD do thu hẹp nguồn cung các mặt hàng công nghiệp như dầu thô và các nhóm hàng thực phẩm như đậu nành. Trái lại, kim ngạch nhập khẩu tăng lên mức 331,3 tỷ USD, nhờ các lô hàng chất bán dẫn và các sản phẩm tiêu dùng như điện thoại thông minh. Lãi suất cao hơn khiến đồng USD mạnh hơn, từ đó khiến hàng hóa Mỹ trở nên đắt đỏ hơn và điều này có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu[4].

Động thái tăng lãi suất 0,75 điểm phần trăm lần thứ tư liên tiếp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vào ngày 2/11 là sự tiếp tục của chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ quyết liệt nhất của Ngân hàng Trung ương này kể từ đầu thập niên 1980. Chỉ trong vòng 8 tháng, lãi suất quỹ liên bang (fed funds rate) đã tăng thêm 3,75 điểm phần trăm, lên mức 3,75-4%, cao nhất kể từ tháng 1/2008.

Việc chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát lõi ở Mỹ đã giảm trong tháng 10/2022 có thể được nhận định là cơ sở để Cục dự trữ Liên bang cân nhắc tới việc giảm tốc độ tăng lãi suất, khi những tác động của các đợt mạnh tay nâng lãi suất bắt đầu ảnh hưởng tới nền kinh tế Mỹ. Mặc dù Fed sẽ chưa thể chuyển sang cắt giảm lãi suất nhưng có nhiều khả năng Fed sẽ giảm dần tốc độ tăng lãi suất hoặc sẽ dừng việc tăng lãi suất.

Sau khi Báo cáo về tình hình lạm phát được công bố, với những dấu hiệu khả quan về tình hình lạm phát, trong tháng 12/2022, các quan chức của Fed cũng có thể tăng lãi suất với tốc độ chậm lại, ở mức 50% điểm cơ bản.

Báo cáo Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Mỹ, do Bộ Tài chính Mỹ đưa ra trong tháng 11/2022, xem xét khả năng thao túng tiền tệ của các đối tác lớn của Mỹ trên cơ sở các tiêu chí về thặng dư thương mại song phương với Mỹ, thặng dư cán cân vãng lai. Theo báo cáo này, Mỹ đã đưa 7 quốc gia vào Danh sách giám sát bao gồm: Trung Quốc, Đức, Nhật, Hàn, Singapore, Malaysia và Đài Loan. Việt Nam, Ấn Độ, Italia, Mexico và Thái Lan đã được đưa ra khỏi danh sách giám sát này. Bộ Tài chính Mỹ kết luận, tất cả các đối tác thương mại chính của Mỹ đều không có hành vi thao túng tiền tệ trong thời gian từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022[5].

Hội đồng Hội nghị dự báo rằng sự yếu kém về kinh tế sẽ gia tăng và lan rộng hơn khắp nền kinh tế Hoa Kỳ trong những tháng tới và suy thoái kinh tế sẽ bắt đầu vào khoảng cuối năm 2022. Triển vọng này có liên quan đến lạm phát dai dẳng và thái độ diều hâu gia tăng của Cục Dự trữ Liên bang. Tăng trưởng GDP năm 2022 được dự báo sẽ đạt 1,8% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng trưởng năm 2023 sẽ giảm xuống 0%.

Mặc dù nền kinh tế Hoa Kỳ không rơi vào suy thoái vào đầu năm nay khi các chỉ số rất tiêu cực, nhưng một cuộc suy thoái trên diện rộng hiện đang diễn ra. Tuy nhiên, do tăng trưởng kinh tế quý 3 năm 2022 tốt hơn dự kiến, Hội đồng Hội nghị đã nâng dự báo cho quý 4 năm 2022 từ -0,8% lên -0,5%. Trong khi đó, hướng dẫn gần đây của Cục Dự trữ Liên bang về quỹ đạo lãi suất cho đến năm 2023 đã khiến chúng dự báo cho năm 2023 bị giảm xuống. Suy thoái sẽ kéo dài sang Quý II năm 2023 và sự phục hồi trong nửa cuối năm 2023 sẽ ít rõ rệt.

Tăng trưởng kinh tế nhẹ nhàng trong năm 2022, cùng với chỉ số lạm phát cao liên tục, phù hợp với môi trường lạm phát đình trệ. Trong khi nới lỏng các ràng buộc về phía cung và chính sách tiền tệ diều hâu hơn sẽ giúp hạ nhiệt lạm phát trong các quý tới, lãi suất tăng sẽ đẩy nền kinh tế Mỹ vào suy thoái trên diện rộng. Sự thu hẹp này sẽ tác động đến thị trường lao động cực và khiến tỷ lệ thất nghiệp cao hơn. Tuy nhiên, Hội đồng dự đoán tỷ lệ thất nghiệp có thể đạt đỉnh 4,5%, là mức khá thấp. Kỳ vọng này phản ánh tình trạng thiếu lao động trầm trọng có thể tiếp diễn bất chấp suy thoái. Suy thoái kinh tế sẽ kéo dài ba quý và lạm phát sẽ duy trì trên mức mục tiêu 2% của Fed cho đến ít nhất là năm 2024. Giai đoạn này cũng sẽ thể hiện các đặc điểm lạm phát đình trệ – mặc dù không nghiêm trọng như hiện nay.

Theo Wells Fargo, mặc dù báo cáo CPI tháng 10 cho thấy lạm phát dịch vụ đang bắt đầu giảm bớt, nhưng nó sẽ khó thoái lui hơn so với lạm phát hàng hóa do chi phí lao động tiếp tục tăng. Vì vậy, CPI cơ bản năm được dự đoán sẽ giảm từ mức 5,8% ghi nhận trong ba tháng qua xuống khoảng 4,25% trong ba tháng tới và vẫn ở mức khoảng 3% trong quý IV năm sau.

Cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2022 của Hoa Kỳ vẫn còn bỏ ngỏ một số vấn đề, đặc biệt là liên quan đến việc đảng nào sẽ chiếm đa số tại Thượng viện trong hai năm tới. Quyền kiểm soát Thượng viện có thể được xác định trong cuộc bầu cử vòng hai ở Georgia vào ngày 6 tháng 12. Điều đó cho thấy có vẻ như Đảng Cộng hòa sẽ chiếm ít nhất một đa số nhỏ trong Hạ viện, khiến việc chính phủ bị chia rẽ sẽ quay trở lại lần đầu tiên kể từ năm 2018-2019. Kết quả có thể xảy ra là chính phủ có khả năng đóng cửa hoặc mức trần nợ trong hai năm tới.

Hiện tại, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tăng trưởng tương đối mạnh. Tăng trưởng GDP quý 3 rất ấn tượng ở mức 13,6% đã tạo đà cho tăng trưởng cả năm nay với dự báo trên 8 phần trăm[6]. Tuy nhiên, rủi ro suy thoái kinh tế toàn cầu tiếp tục là một mối đe doạ đối với Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu. Những bất ổn về địa chính trị và nguy cơ tái bùng phát dịch Covid-19 cũng có thể làm cho triển vọng kinh tế trở nên xấu đi.

Trong bối cảnh lạm phát toàn cầu, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng lãi suất như một công cụ để khống chế lạm phát. Các động thái thắt chặt của Fed khiến việc kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái là khó tránh khỏi. Trong khi đó, Mỹ vẫn đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta. Thêm vào đó, tăng trưởng xuất khẩu trong những tháng vừa qua chủ yếu do giá cả tăng chứ không phải tăng về lượng xuất. Do vậy, xuất khẩu sẽ có khả năng chững lại trong giai đoạn đầu năm 2023.

Hiện tại, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng bị cản trở do lãi suất tăng cao và việc tiếp cận nguồn vốn gặp khó khăn. Vì vậy, chính sách tiền tệ cần được thực hiện một cách thận trọng để đảm bảo các ngân hàng đủ khả năng thanh khoản và có thể nới room tín dụng cho các lĩnh vực đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.

[1] Trading Economics ( November 2022), United States GDP Growth Rate.

[2] U.S. Bureau of Labor Statistics. THE EMPLOYMENT SITUATION — October 2022

[3] Trading Economics, United States Core Inflation Rate, https://tradingeconomics.com/united-states/core-inflation-rate

[4] Trading Economics (Novemeber 2022), United States Balance of Trade.

[5] Reuters (Nov 10, 2022), U.S. Treasury Finds No Currency Manipulation by Major Trading Partners, https://money.usnews.com/investing/news/articles/2022-11-10/u-s-treasury-finds-no-currency-manipulation-sees-dollar-strength-easing

[6] Ban Thời sự (2022). Tăng trưởng cuối năm nay và đầu 2023 được dự báo gặp nhiều lực cản, https://vtv.vn/kinh-te/tang-truong-cuoi-nam-nay-va-dau-2023-duoc-du-bao-gap-nhieu-luc-can-20221122203220415.htm